新規更新January 15, 2020 at 02:16AM
【外部リンク】
Lò phản xạ
Khonghieugi123:
[[Tập tin:Wiki-Uralelectromed MG19442.jpg|nhỏ|Lò phản xạ nấu quặng đồng tại xí nghiệp của [[Công ty Khai mỏ và Luyện kim Ural|UMMC]] tại Nga.]]
'''Lò phản xạ''' là một [[lò]] [[luyện kim]] hay lò chế biến, trong đó nó cô lập nguyên liệu phải chế biến không cho tiếp xúc với [[nhiên liệu]] nhưng không cô lập sự tiếp xúc với các khí thoát ra từ sự cháy.
== Hoạt động ==
[[Tập tin:Reverberatory furnace diagram.png|nhỏ|250 px|Mô hình lò phản xạ.]]
Lò phản xạ có thể được chia ra thành các bộ phận sau: Bếp lò là nơi nhiên liệu được đốt để cung cấp nhiệt. Nồi lò là nơi nguyên liệu được cấp nhiệt từ phản xạ của bức xạ nhiệt và đối lưu của khí thoát ra. Ống khói là chỗ để khí từ sự cháy thoát ra.
Lò phản xạ khác với [[lò cao]] ở chỗ trong lò cao thì nhiên liệu và nguyên liệu được trộn lẫn trong một khoang. Nó cũng khác với [[chén nung]], [[lò buồng kín]] hay [[bình cổ cong]] ở chỗ trong các thiết bị này thì nguyên liệu bị cô lập với cả nhiên liệu lẫn các sản phẩm của sự cháy như khí và tro bay. Tuy nhiên, do có rất nhiều kiểu thiết kế lò phản xạ và thuật ngữ của ngành luyện kim chưa được định nghĩa nhất quán, nên nói chung khó mà phủ định một cách tuyệt đối các định nghĩa hay quan điểm khác về lò phản xạ, nhưng từ "phản xạ" được hiểu ở đây như là sự phản xạ của bức xạ nhiệt từ mái lò xuống khối nguyên liệu trong nồi lò.
==Ứng dụng và so sánh với lò cao==
Ứng dụng của các thiết bị này được chia thành hai thể loại chung là lò nấu luyện kim và lò chế biến nhiệt độ thấp hơn thông thường được dùng cho quặng kim loại và các khoáng vật khác.
Khi xét theo tính hiệu quả trong so sánh với lò cao thì lò phản xạ là kém ưu thế hơn, do sự tách biệt không gian của nhiên liệu cháy với nguyên liệu được gia công, và điều cần thiết là tận dụng có hiệu quả cả [[bức xạ nhiệt|nhiệt bức xạ]] lẫn tiếp xúc trực tiếp với các [[khí thoát ra]] ([[đối lưu]]) để tối đa [[trao đổi nhiệt]]. Trong quá khứ các lò này sử dụng nhiên liệu rắn, và [[than bitum|than mỡ]] được chứng minh là lựa chọn tốt nhất. Ngọn lửa chói sáng dễ thấy (do lượng chất bốc cao) tạo ra trao đổi nhiệt bức xạ cao hơn so với [[anthracit|than đá]] hay [[than củi]].
Tiếp xúc với sản phẩm của sự cháy, điều có thể thêm các nguyên tố không mong muốn vào nguyên liệu được chế biến, được sử dụng để tạo ra ưu thế trong một số quy trình. Kiểm soát cân bằng nhiên liệu/không khí có thể thay đổi thành phần hóa học của khí thoát ra hoặc là về phía tạo thành hỗn hợp khử hoặc là về phía tạo thành hỗn hợp oxi hóa, và vì thế làm thay đổi tính chất hóa học của nguyên liệu được chế biến. Chẳng hạn, [[gang|gang đúc]] có thể được ''[[lò puddling|khuấy luyện]]'' trong môi trường oxi hóa để chuyển thành [[thép vừa cacbon]] hay [[sắn rèn|sắt thỏi]]. Lò Siemens-Martin trong [[Lò Martin|luyện thép lò bằng]] cũng là một loại lò phản xạ.
Các lò phản xạ (thường cũng được gọi là '''lò khí''') trước đây cũng được sử dụng để nấu chảy đồng thau, [[đồng thanh]], [[gang thỏi|gang luyện thép]] để [[đúc]]. Trong khoảng 75 năm đầu tiên của thế kỷ 20 chúng cũng là lò nấu luyện chủ yếu trong sản xuất [[đồng]], được dùng trong xử lý tinh quặng đồng sulfua nung kết hay tinh quặng thô.<ref name = "Davenport"></ref> Hiện nay chúng đã bị thay thế trong vai trò này, ban đầu là bởi [[Nấu luyện lửa|lò nấu luyện lửa]] (lò flash) và sau đó là lò Ausmelt<ref name = "Davenport"/> và lò [[ISASMELT]],<ref>J. L. Bill, T. E. Briffa, A. S. Burrows, C. R. Fountain, D. Retallick, J. M. I. Tuppurainen, J. S. Edwards & P. Partington, "Isasmelt—Mount Isa copper smelter progress update" trong: R. L. Stephens & H. Y. Sohn (chủ biên) ''Sulfide Smelting 2002''. The Minerals, Metals and Materials Society, Warrendale, Pennsylvania, 2002, 181–193. ISBN 9780873395250</ref> do các loại lò này rất hiệu quả trong việc tạo ra xỉ với tỷ lệ thất thoát đồng rất thấp.<ref name = "Davenport"/>
==Lịch sử==
[[Tập tin:Reverberatory furnace of Nirayama.jpg|nhỏ|200px|Lò phản xạ ''Nirayama'' (韮山, Cửu Sơn) ở [[Izunokuni]], [[Shizuoka]], Nhật Bản. Được xây dựng từ tháng 11 năm 1853, sau 3,5 năm đã hoàn thành vào năm 1857 và vận hành đến năm 1864. Được công nhận là [[di tích lịch sử]] ngày 8 tháng 3 năm 1922, Di sản Hiện đại hóa công nghiệp Nhật Bản ngày 30 tháng 11 năm 2007.<ref>Người Nhật nghiên cứu công nghệ đúc của người Hà Lan trong sách [https://ift.tt/30vwBTr ''Het gietwezen in's Rijks ijzer-geschutgieterij te Luik''] (Các quy trình đúc tại Xưởng đúc thần công sắt quốc gia tại [[Liège|Luik]]) của Huguenin Ulrich (1755-1833) năm 1826, xem thêm [https://ift.tt/2QV0QQl Origin and development of iron and steel technology in Japan.] và sau đó xây lò theo sách này.</ref>]]
Các lò phản xạ đầu tiên có lẽ được xây dựng trong thời Trung cổ và được sử dụng để nấu chảy [[đồng thanh]] phục vụ đúc [[chuông]]. Chúng được sử dụng để [[nấu luyện]] kim loại lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 17. Tòng nam tước [[Clement Clerke]] và con trai ông là Talbot đã xây dựng các lò đứng hay lò phản xạ trong hẻm núi [[sông Avon, Bristol|Avon]] phía dưới [[Bristol]] vào khoảng năm 1678.<ref name=King1997>P. W. King, 1997. "The Cupola at Bristol", ''Somerset Araeology and Natural History'' 140: 37–52.</ref><ref name=King2001>P. W. King, 2001-2002. [https://ift.tt/2NoPtxK Sir Clement Clerke and the Adoption of coal in metallurgy]. ''Transactions of the Newcomen Society'' 73(1): 33–53.</ref> Năm 1687, trong khi bị cản trở không được nấu luyện [[chì]] (do kiện tụng), họ đã chuyển sang nấu luyện [[đồng]].<ref name=King1997 /><ref name=King2001 /> Trong thập niên tiếp theo, lò phản xạ được chấp nhận rộng khắp để nấu luyện các kim loại này và [[thiếc]]. Chúng có ưu thế so với các phương thức cũ hơn ở chỗ nhiên liệu là than khoáng chứ không phải than củi hay 'than trắng' (gỗ khô chặt khúc).
Trong thập niên 1690 họ (hoặc những người cộng tác) đã dùng lò phản xạ (được biết đến như là lò khí) để nấu chảy gang thỏi phục vụ cho các công việc đúc. Nó được sử dụng tại [[Coalbrookdale]] và nhiều nơi khác, nhưng trở thành lỗi thời vào cuối thế kỷ 18 với sự giới thiệu các [[lò đứng]] xưởng đúc, một thể loại [[lò cao]] nhỏ cũng như là một thể loại lò phản xạ rất khác biệt.
[[Lò puddling]] được [[Henry Cort]] giới thiệu trong thập niên 1780 để thay thế [[rèn tinh luyện|quy trình tinh luyện]], cũng là một loại lò phản xạ.
== Nấu nhôm ==
Ngày nay, lò phản xạ được sử dụng rộng rãi để nấu phế liệu [[nhôm]] trong công nghiệp đúc khuôn áp lực.
Lò phản xạ đơn giản nhất chỉ thuần túy là một một hộp thép được lót [[gạch chịu lửa]] [[alumina]] với [[ống khói]] ở một đầu và một cửa nâng theo chiều dọc ở đầu kia để nạp nhiên liệu. Các đầu đốt dầu hay khí thông thường nói chung được đặt ở hai bên của đầu kia nơi có cửa nâng nạp nhiên liệu của lò để nung nóng gạch lót lò và cấp nhiệt bằng phản xạ cho khối phế liệu kim loại trong nồi lò để làm nóng chảy nó. Khối kim loại lỏng này sau đó được rót vào máy đúc khuôn để sản xuất nhôm thỏi.
==Xem thêm==
* [[Lò Martin]]
* [[Lò puddling]]
==Tham khảo==
===Xem thêm===
* ''Encyclopædia Britannica'', ấn bản lần thứ 14.
* J. Day & R. F. Tylecote (chủ biên), 1991. ''The Industrial Revolution in Metals''.
== Liên kết ngoài ==
*
*
[[Thể loại:Lò công nghiệp]]
'''Lò phản xạ''' là một [[lò]] [[luyện kim]] hay lò chế biến, trong đó nó cô lập nguyên liệu phải chế biến không cho tiếp xúc với [[nhiên liệu]] nhưng không cô lập sự tiếp xúc với các khí thoát ra từ sự cháy.
== Hoạt động ==
[[Tập tin:Reverberatory furnace diagram.png|nhỏ|250 px|Mô hình lò phản xạ.]]
Lò phản xạ có thể được chia ra thành các bộ phận sau: Bếp lò là nơi nhiên liệu được đốt để cung cấp nhiệt. Nồi lò là nơi nguyên liệu được cấp nhiệt từ phản xạ của bức xạ nhiệt và đối lưu của khí thoát ra. Ống khói là chỗ để khí từ sự cháy thoát ra.
Lò phản xạ khác với [[lò cao]] ở chỗ trong lò cao thì nhiên liệu và nguyên liệu được trộn lẫn trong một khoang. Nó cũng khác với [[chén nung]], [[lò buồng kín]] hay [[bình cổ cong]] ở chỗ trong các thiết bị này thì nguyên liệu bị cô lập với cả nhiên liệu lẫn các sản phẩm của sự cháy như khí và tro bay. Tuy nhiên, do có rất nhiều kiểu thiết kế lò phản xạ và thuật ngữ của ngành luyện kim chưa được định nghĩa nhất quán, nên nói chung khó mà phủ định một cách tuyệt đối các định nghĩa hay quan điểm khác về lò phản xạ, nhưng từ "phản xạ" được hiểu ở đây như là sự phản xạ của bức xạ nhiệt từ mái lò xuống khối nguyên liệu trong nồi lò.
==Ứng dụng và so sánh với lò cao==
Ứng dụng của các thiết bị này được chia thành hai thể loại chung là lò nấu luyện kim và lò chế biến nhiệt độ thấp hơn thông thường được dùng cho quặng kim loại và các khoáng vật khác.
Khi xét theo tính hiệu quả trong so sánh với lò cao thì lò phản xạ là kém ưu thế hơn, do sự tách biệt không gian của nhiên liệu cháy với nguyên liệu được gia công, và điều cần thiết là tận dụng có hiệu quả cả [[bức xạ nhiệt|nhiệt bức xạ]] lẫn tiếp xúc trực tiếp với các [[khí thoát ra]] ([[đối lưu]]) để tối đa [[trao đổi nhiệt]]. Trong quá khứ các lò này sử dụng nhiên liệu rắn, và [[than bitum|than mỡ]] được chứng minh là lựa chọn tốt nhất. Ngọn lửa chói sáng dễ thấy (do lượng chất bốc cao) tạo ra trao đổi nhiệt bức xạ cao hơn so với [[anthracit|than đá]] hay [[than củi]].
Tiếp xúc với sản phẩm của sự cháy, điều có thể thêm các nguyên tố không mong muốn vào nguyên liệu được chế biến, được sử dụng để tạo ra ưu thế trong một số quy trình. Kiểm soát cân bằng nhiên liệu/không khí có thể thay đổi thành phần hóa học của khí thoát ra hoặc là về phía tạo thành hỗn hợp khử hoặc là về phía tạo thành hỗn hợp oxi hóa, và vì thế làm thay đổi tính chất hóa học của nguyên liệu được chế biến. Chẳng hạn, [[gang|gang đúc]] có thể được ''[[lò puddling|khuấy luyện]]'' trong môi trường oxi hóa để chuyển thành [[thép vừa cacbon]] hay [[sắn rèn|sắt thỏi]]. Lò Siemens-Martin trong [[Lò Martin|luyện thép lò bằng]] cũng là một loại lò phản xạ.
Các lò phản xạ (thường cũng được gọi là '''lò khí''') trước đây cũng được sử dụng để nấu chảy đồng thau, [[đồng thanh]], [[gang thỏi|gang luyện thép]] để [[đúc]]. Trong khoảng 75 năm đầu tiên của thế kỷ 20 chúng cũng là lò nấu luyện chủ yếu trong sản xuất [[đồng]], được dùng trong xử lý tinh quặng đồng sulfua nung kết hay tinh quặng thô.<ref name = "Davenport"></ref> Hiện nay chúng đã bị thay thế trong vai trò này, ban đầu là bởi [[Nấu luyện lửa|lò nấu luyện lửa]] (lò flash) và sau đó là lò Ausmelt<ref name = "Davenport"/> và lò [[ISASMELT]],<ref>J. L. Bill, T. E. Briffa, A. S. Burrows, C. R. Fountain, D. Retallick, J. M. I. Tuppurainen, J. S. Edwards & P. Partington, "Isasmelt—Mount Isa copper smelter progress update" trong: R. L. Stephens & H. Y. Sohn (chủ biên) ''Sulfide Smelting 2002''. The Minerals, Metals and Materials Society, Warrendale, Pennsylvania, 2002, 181–193. ISBN 9780873395250</ref> do các loại lò này rất hiệu quả trong việc tạo ra xỉ với tỷ lệ thất thoát đồng rất thấp.<ref name = "Davenport"/>
==Lịch sử==
[[Tập tin:Reverberatory furnace of Nirayama.jpg|nhỏ|200px|Lò phản xạ ''Nirayama'' (韮山, Cửu Sơn) ở [[Izunokuni]], [[Shizuoka]], Nhật Bản. Được xây dựng từ tháng 11 năm 1853, sau 3,5 năm đã hoàn thành vào năm 1857 và vận hành đến năm 1864. Được công nhận là [[di tích lịch sử]] ngày 8 tháng 3 năm 1922, Di sản Hiện đại hóa công nghiệp Nhật Bản ngày 30 tháng 11 năm 2007.<ref>Người Nhật nghiên cứu công nghệ đúc của người Hà Lan trong sách [https://ift.tt/30vwBTr ''Het gietwezen in's Rijks ijzer-geschutgieterij te Luik''] (Các quy trình đúc tại Xưởng đúc thần công sắt quốc gia tại [[Liège|Luik]]) của Huguenin Ulrich (1755-1833) năm 1826, xem thêm [https://ift.tt/2QV0QQl Origin and development of iron and steel technology in Japan.] và sau đó xây lò theo sách này.</ref>]]
Các lò phản xạ đầu tiên có lẽ được xây dựng trong thời Trung cổ và được sử dụng để nấu chảy [[đồng thanh]] phục vụ đúc [[chuông]]. Chúng được sử dụng để [[nấu luyện]] kim loại lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 17. Tòng nam tước [[Clement Clerke]] và con trai ông là Talbot đã xây dựng các lò đứng hay lò phản xạ trong hẻm núi [[sông Avon, Bristol|Avon]] phía dưới [[Bristol]] vào khoảng năm 1678.<ref name=King1997>P. W. King, 1997. "The Cupola at Bristol", ''Somerset Araeology and Natural History'' 140: 37–52.</ref><ref name=King2001>P. W. King, 2001-2002. [https://ift.tt/2NoPtxK Sir Clement Clerke and the Adoption of coal in metallurgy]. ''Transactions of the Newcomen Society'' 73(1): 33–53.</ref> Năm 1687, trong khi bị cản trở không được nấu luyện [[chì]] (do kiện tụng), họ đã chuyển sang nấu luyện [[đồng]].<ref name=King1997 /><ref name=King2001 /> Trong thập niên tiếp theo, lò phản xạ được chấp nhận rộng khắp để nấu luyện các kim loại này và [[thiếc]]. Chúng có ưu thế so với các phương thức cũ hơn ở chỗ nhiên liệu là than khoáng chứ không phải than củi hay 'than trắng' (gỗ khô chặt khúc).
Trong thập niên 1690 họ (hoặc những người cộng tác) đã dùng lò phản xạ (được biết đến như là lò khí) để nấu chảy gang thỏi phục vụ cho các công việc đúc. Nó được sử dụng tại [[Coalbrookdale]] và nhiều nơi khác, nhưng trở thành lỗi thời vào cuối thế kỷ 18 với sự giới thiệu các [[lò đứng]] xưởng đúc, một thể loại [[lò cao]] nhỏ cũng như là một thể loại lò phản xạ rất khác biệt.
[[Lò puddling]] được [[Henry Cort]] giới thiệu trong thập niên 1780 để thay thế [[rèn tinh luyện|quy trình tinh luyện]], cũng là một loại lò phản xạ.
== Nấu nhôm ==
Ngày nay, lò phản xạ được sử dụng rộng rãi để nấu phế liệu [[nhôm]] trong công nghiệp đúc khuôn áp lực.
Lò phản xạ đơn giản nhất chỉ thuần túy là một một hộp thép được lót [[gạch chịu lửa]] [[alumina]] với [[ống khói]] ở một đầu và một cửa nâng theo chiều dọc ở đầu kia để nạp nhiên liệu. Các đầu đốt dầu hay khí thông thường nói chung được đặt ở hai bên của đầu kia nơi có cửa nâng nạp nhiên liệu của lò để nung nóng gạch lót lò và cấp nhiệt bằng phản xạ cho khối phế liệu kim loại trong nồi lò để làm nóng chảy nó. Khối kim loại lỏng này sau đó được rót vào máy đúc khuôn để sản xuất nhôm thỏi.
==Xem thêm==
* [[Lò Martin]]
* [[Lò puddling]]
==Tham khảo==
===Xem thêm===
* ''Encyclopædia Britannica'', ấn bản lần thứ 14.
* J. Day & R. F. Tylecote (chủ biên), 1991. ''The Industrial Revolution in Metals''.
== Liên kết ngoài ==
*
*
[[Thể loại:Lò công nghiệp]]
https://ift.tt/2QRAm20